Thứ Ba, 13 tháng 12, 2022


CÁC NGHI LỄ ĐẦU NĂM CỦA NGƯỜI CHĂM
Thôn Bỉnh Nghĩa, xã Bắc Sơn, huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận

Xem video Tại YouTube tại đây



Thứ Năm, 20 tháng 3, 2014

LỄ HỘI ĐẦU NĂM CỦA LÀNG CHĂM THÔN BỈNH NGHĨA

Bỉnh Nghĩa là một làng người Chăm Bàlamôn (Cam Jat, nghĩa là người Chăm gốc, hay Cam Ahier) thuộc xã Bắc Sơn, huyện Thuận Bắc, (xã Phương Hải, huyện Ninh Hải cũ), tỉnh Ninh Thuận. Theo số liệu công bố của huyện Thuận Bắc,  xã Bắc Sơn có 4 thôn và 3 dân tộc cùng sinh sống bao gồm : 1.483 hộ/ 7.519 khẩu. Trong đó: Thôn Bỉnh Nghĩa gồm 557 hộ/ 3.055 khẩu; Thôn Láng Me ( chủ yếu là người Kinh sinh sống) gồm 357 hộ/1.603 khẩu; Thôn Xóm Bằng và Thôn Xóm Bằng 2 (Chủ yếu là người Rắclay) gồm 569 hộ/ 2.861 khẩu.

Theo các cụ trong làng, cái tên Bỉnh Nghĩa có từ năm 1937 dưới thời ông Đạo Đặng làm lý trưởng, khi làng chuyển về chỗ hiện nay. Còn tên Chăm của làng là Bal Riya. Làng nằm trong một vùng đất khô cằn, có những dãy núi lớn bao quanh như Cơk Yang, Cơk Praun, Cơk Mưrau, Cơk Mưh… Bỉnh Nghĩa không chỉ nằm trong một vùng đất khá biệt lập về địa lý mà lại tách khá xa những làng Chăm khác. Ở tỉnh Ninh Thuận, người Chăm sống tập trung và chủ yếu ở huyện Ninh Phước; ở huyện Ninh Hải, có hai thôn người Chăm: An Nhơn, Phước Nhơn ở xã Xuân Hải và thôn Bỉnh Nghĩa ở huyện Thuận Bắc.
Như vậy, có thể nói, người Chăm ở Bỉnh Nghĩa sống ở một nơi khá tách biệt với khối cộng đồng Chăm Ahier của mình. Có lẽ vì lý do đó mà Bỉnh Nghĩa không nằm trong ba khu vực cộng đồng Bàlamôn ở Ninh Thuận. Khoảng 38.000 người Chăm Bàlamôn ở 16 thôn được phân thành ba khu vực theo đền tháp thờ tự: 1. Khu vực tháp Pô Rômê (làng Hậu Sanh) có sáu làng: Hậu Sanh, Hiếu Thiện, Vụ Bổn, Mỹ Nghiệp, Chung Mỹ và Phước Lập; 2. Khu vực đền Pô Inư Nưgar (làng Hữu Đức) có ba làng: Hữu Đức, Như Bình và Bầu Trúc; 3. Khu vực tháp Pô Klong Girai có bảy làng: Hiếu Lễ, Chất Thường, Phú Nhuận, Hoài Trung, Phước Đồng, Thành Ý và có thể cả Bỉnh Nghĩa. Lý do để có thể quy Bỉnh Nghĩa vào khu vực Pô Klong Girai là vào những khi tiến hành lễ nghi cần đến chức sắc Bàlamôn ở thôn, thì thôn phải mời các vị chức sắc từ khu vực Pô Klong Girai đến làm lễ, vì trong thôn không có đầy đủ những thầy chức sắc Bàlamôn.
Tháp Pô Klong Girai
Ta thấy rằng, không chỉ không nằm vào một trong ba khu vực thờ tự, mà Bỉnh Nghĩa cũng không tham gia vào ba cụm các làng hàng năm tổ chức công lễ cầu đảo ở ba cửa biển. Như thường lệ, hàng năm, sau lễ hội Rija Nưgar đầu năm đúng một tháng (vào thượng tuần tháng hai lịch Chăm), người Chăm tổ chức lễ cầu đảo (Palao Rija Sah) rất lớn tại ba cửa biển: cửa biển ở núi Cà Đú (gần cửa biển Ninh Chử), cửa biển Cà Ná và cửa Nại. Tới Cà Đú làm lễ có các làng Chăm Bàlamôn: Hữu Đức, Vĩnh Thuận, Vĩnh Phong và các làng Chăm Bàni: Thành Tín, Tuấn Tú. Làm lễ tại cửa Nại có các làng Chăm Bàlamôn: Hoài Trung, Chất Thường, Hiếu Lễ, Phước Đồng, Thành Ý và các làng Chăm Bàni: Phú Nhuận, Lương Trị, Phước Nhơn, An Nhơn.  Còn các làng Chăm Bàlamôn: Hậu Sanh, Vụ Bổn, Hiếu Thiện, Phước Lập, Chung Mỹ, Mỹ Nghiệp và làng Chăm Bàni Văn Lâm thì tổ chức lễ tại cửa biển Cà Ná. Lễ hội Palao Rija Sah là một công lễ lớn nằm trong hệ thống các lễ hội chuyển mùa đầu năm của người Chăm. Điều đặc biệt là tại lễ cầu đảo này, diễn ra nhiều lễ thức đầu năm rất đa dạng: Có lễ thức tế sinh của Bàlamôn giáo, có lễ thức đọc kinh cầu đảo của Hồi giáo Bàni, có những bài hát và điệu múa phồn thực của tín ngưỡng dân gian, có cả việc tái hiện lại lễ Rija Nưgar…
Bỉnh Nghĩa cũng không đến cả các tháp Chăm để làm lễ Yôr Yang (lễ cầu mưa), công lễ mang tính chuyển mùa hàng năm của người Chăm. Sau lễ Palao Rija Sah hai tháng, nghĩa là sau lễ Rija Nưgar đầu năm đúng bốn tháng, vào thượng tuần tháng tư lịch Chăm, các làng Chăm đến ba khu tháp là Pô Klong Girai, Pô Rômê và Pô Dam (ở tỉnh Bình Thuận) làm lễ. Lễ Yôr Yang diễn ra trong hai ngày một đêm và gồm những lễ thức chính sau:
1. Talih Tanưk (lễ tẩy uế đền tháp);
2. Bac gar Pruang (lễ đọc kinh);
3. Cuh Yang Pui (lễ đốt thần Lửa).
Có thể thấy tính chất Bàlamôn giáo còn rất rõ trong lễ cầu đảo này; làm lễ tại các tháp thờ Bàlamôn giáo; đọc các bài kinh cổ ca tụng thần Lửa (Yang Aditak)… và dâng cúng các đồ tế cho các thần bằng lửa.
Cũng trong tháng tư Chăm, ngoài công lễ Yôr Yang ở các tháp, các làng Chăm cũng làm những lễ cầu đảo riêng ở cấp độ làng. Vào dịp này, đồng bào Chăm còn hành hương lên núi Chà Bang để cầu cúng nữ thần Pô Nai và đến các miếu thờ Pô Riyak (thần Sóng Biển) để cầu mưa, cầu phúc cho cả năm.
Hệ thống lễ hội chuyển mùa đầu năm của người Chăm kéo dài suốt bốn tháng đầu năm (thời gian chuyển mùa từ mùa khô sang mùa mưa), bắt đầu từ lễ hội Rija Nưgar, qua đại lễ Palao Rija Sah và kết thúc ở công lễ Yôr Yang và diễn ra vừa ở từng làng, vừa ở các cửa biển, vừa ở các đền tháp, và tất nhiên, vừa ở các gia tộc. Nghĩa là, trong dịp lễ hội chuyển mùa đầu năm, người Chăm vừa làm lễ ở nhà, ở gia tộc, vừa tham gia vào lễ của làng và vừa đi cầu cúng tại các công lễ ở những địa điểm bên ngoài làng mình.
Khác với đại đa số cộng đồng Chăm, ở Bỉnh Nghĩa, gần như tất cả những lễ nghi chuyển mùa của một năm được tiến hành liên tục trong 10 ngày đầu tháng một lịch Chăm (khoảng tháng tư hoặc tháng năm dương lịch) qua một loạt cuộc lễ tại các địa điểm khác nhau trong và ngoài làng Bỉnh Nghĩa. Các địa điểm mà ở đó lần lượt diễn ra các lễ đầu năm của dân làng Bỉnh Nghĩa là:
Miếu thờ Pô  BilThuôr
1. Miếu thờ Pô BilThuôr (hay còn gọi là miếu Ông) tại làng Bỉnh Nghĩa;
2. Một bãi trống của làng Bỉnh Nghĩa (thường là bãi sân bóng đá của làng);
3. Lăng Pô BilThuôr (cách làng Bỉnh Nghĩa 14km về phía Đông thuộc hai làng Khánh Nhơn và Mỹ Tường, xã Nhân Hải);
4. Cửa Ngâm (thuộc làng Mỹ Tân, xã Nhân Hải);
5. Miếu Pô Bia Sôi (hay được gọi là Miếu Bà Đỏ) ở làng Mỹ Tân, xã Nhân Hải;
6. Miếu Pô Inư Nưgar tại làng Bỉnh Nghĩa;
7. Núi Chà Bang ở Phước Nam, huyện Ninh Phước;
8. Miếu Pô Riyak (thần Sóng Biển) ở làng Sơn Hải, xã Phước Dinh, huyện Ninh Phước. Các địa điểm này nằm trải ra trên một địa bàn khá rộng ở hai huyện Ninh Hải và Ninh Phước tỉnh Ninh Thuận.
Về Lễ hội đầu năm của làng Chăm thôn Bỉnh Nghĩa:
Trong đại lễ hội đầu năm, chỉ có một đại lễ hội – lễ hội Rija Nưgar – của người Chăm ở Bỉnh Nghĩa và ở các nơi khác là ít nhiều có sự thống nhất cả về thời gian và về tính chất.
Như ở các làng Chăm khác, ngày hôm trước của Rija Nưgar, người Chăm ở Bỉnh Nghĩa làm lễ Rija Harei ở miếu thờ thần làng – miếu Pô Bil Thuôr. Lễ diễn ra trong khoảng một tiếng đồng hồ vào buổi trưa trong cái rạp cao khoảng 2m, rộng 4m và dài 5m dựng ở sân miếu. Chủ lễ là ông Từ cùng ông Bóng và thầy Cò Ke (ông Kadhar) là phụ. Ban nhạc có trống paranưng, trống ginăng, kèn saranai và chiêng. Lễ vật cúng gồm trầu cau, hoa quả, cơm, canh, rượu, trứng và thịt dê.
Hai ngày lễ hội Rija Nưgar ở Bỉnh Nghĩa, về cơ bản có nhiều điểm giống như ở các nơi khác: được tiến hành vào hai ngày tại một rạp lễ dựng lên ở một bãi trống trong làng; ngày đầu của lễ cúng gà, ngày thứ hai cúng dê cùng mâm hình nộm người và súc vật bằng bột nặn; vai trò chủ lễ của ông thầy Vỗ (ông Mưdỡn) và ông Bóng (on Kaing). Thế nhưng, ở lễ Rija Nưgar của Bỉnh Nghĩa, cũng có một số nét rất riêng.
Trước hết là lễ vật cúng tế. Ở Bỉnh Nghĩa, lễ vật cúng tế ngày thứ hai được chia cụ thể ra cho một số vị thần:
Lễ vật cúng
  - Hai mâm chín lớp gồm chuối, bánh chà kung, xôi, bánh đúc cho Pô Inư Nưgar;
 - Hai mâm tám lớp dành cho Pô Kamantri (thần ghi chép);
  -    Hai mâm bảy lớp dành cho Pô Klong Girai;
  -  Hai mâm năm lớp dành cho Pô Bil Thuôr và Pô Dam;
 -    Một mâm chín lớp dành cho Ya Pô Sang (thần xóm làng: nhà cửa),
-         Hai mâm thịt dê lớn và hai mâm thịt dê nhỏ cúng chung cho các vị thần.
Cũng trong ngày thứ hai này, còn một số điều rất khác và chỉ có trong lễ hội Rija Nưgar ở Bỉnh Nghĩa.
Điểm khác thứ nhất là, trong ngày thứ hai, trước nhà lễ, diễn ra hát đối đáp (dauk Sa) và sau đó là múa phồn thực (Tamia Klai kluk - nghĩa đen là múa dương vật).
Hát đối đáp
-   Hát đối đáp (dauk Sa) do một nhóm nam và một nhóm nữ thực hiện: bên nam hát rồi bên nữ hát đáp lại.
- Múa Phồn thực (Tamia Klai Kluk), người múa là một người đàn ông to khỏe được dân làng bầu chọn và bà Bóng (muk pajau). Vào lễ, ông thầy Cò Ke (kadhar) kéo đàn rabap hát bài tụng ca về nữ thần Mẹ Pô Inư Nưgar, còn người đàn ông được chọn (sau khi đã làm nghi thức mặc váy, áo và khăn trùm đầu) cầm ba cây dương vật (klai kluk) bằng gỗ dài khoảng 25cm đầu tô màu đen, bước ra múa và làm những động tác giao hợp. Múa một hồi, người đàn ông chuyển ba cây dương vật cho bà Bóng rồi tiếp tục múa. Sau đấy, ba cây dương vật được làm lễ tẩy uế rồi được đem đặt lên mâm các hình nhân bằng bột (salih). Kết thúc lễ Rija Nưgar, người ta đem mâm các hình nhân cùng ba cây dương vật thả xuống nước.
Múa Phồn thực
Không còn nghi ngờ nữa, tại lễ hội Rija Nưgar ở Bỉnh Nghĩa, do những nguyên nhân khách quan mà chủ yếu có lẽ là do bị “tách” khỏi khối người Chăm Bàlamôn giáo ở bên kia dòng sông Cái (Krong Praong) nên còn giữ lại được những lễ tục mang tính chất phồn thực của lễ Tết năm mới.
Những nghi thức phồn thực hát đối đáp và múa dương vật cùng các lễ thức của ngày thứ hai Rija Nưgar được lặp lại tại lễ Palao Sah (cầu đảo). Lễ cầu đảo của Bỉnh Nghĩa về cơ bản có một số nét giống của các nơi khác: cũng diễn ra tại cửa biển, cùng với mục đích cầu mưa và cũng có các lễ thức lặp lại lễ hội Rija Nưgar. Thế nhưng, lễ Palao Sah của Bỉnh Nghĩa diễn ra chỉ sau Rija Nưgar có mấy hôm chứ không sau một tháng như ở nơi khác, với sự tham gia của dân làng Bỉnh Nghĩa và được tổ chức tại cửa biển khác – cửa Ngâm (thuộc thôn Mỹ Tân, xã Nhơn Hải).
Làm lễ cầu Đạo tại Cửa Ngâm
Trước khi làm lễ cầu đảo tại Cửa Ngâm, người Chăm ở Bỉnh Nghĩa tiến hành hai lễ tại hai địa điểm khá cách xa nhau: lăng Pô Bil Thuôr (lăng Ông) ở chân núi Aia Mưthin (núi Nước Mắm) thuộc địa phận hai thôn Khánh Nhơn và Mỹ Tường của xã Nhơn Hải, cách Bỉnh Nghĩa 14km về phía đông, và miếu Pô Bia Sôi (hay miếu Bà Đỏ) ở thôn Mỹ Tân, xã Nhơn Hải. Các lễ thức diễn ra ở hai nơi này giống như trình tự và cách thức của các lễ trên các tháp Chăm: bắt đầu là lễ mở cửa, rồi đến lễ rước nước tẩy uế, rước y phục vào, lễ tắm tượng và chính lễ. Lễ do ông thầy Cò Ke (ôn Kadhar) và bà Bóng (muk Pajau) làm chủ lễ. Ngoài ra, tham gia làm lễ còn có ông Bóng (ôn Kaing), ông Từ (Cei Mưnay) và ông thầy Vỗ (ôn Mưduơn). Đồ cúng giống như của lễ Rija Nưgar. Ngoài ra, mỗi hộ gia đình làm hai mâm lễ (một mâm cơm và một mâm hoa quả). Lễ chính ở lăng Pô Bil Thuôr bắt đầu lúc 3 giờ chiều và kéo dài gần hai tiếng đồng hồ, còn ở miếu Bà Đỏ thì từ giữa trưa đến 5 giờ chiều của ngày hôm sau. Mục đích của các lễ hội tại lăng Ông và miếu Bà Đỏ là tưởng nhớ và cầu mong các thần ban cho dân làng những điều tốt lành.
Lễ tắm tượng
Người Chăm cho rằng Pô Bil Thuôr là vua (Pô Tao) Chế Bồng Nga và hòn đá tròn lớn ở Lăng Ông là cái đầu của vua tìm về quê lúc tử trận. Trong khu lăng, ngoài tảng đá tròn lớn (Pô Bil Thuôr) còn một hòn nhỏ mà dân làng gọi là hòn của Pô Dam. Bên ngoài khu chính của lăng có một hòn đá nữa, được gọi là hòn của Pô Ginôr Mưtri (thần Siva). Truyền thuyết của người Chăm kể rằng, khi Pô Bil Thuôr ra trận, vợ ngài là Pô Bia Sôi ngày ngày lên quả đồi Hòn Đỏ nhìn ra biển ngóng thuyền của chồng trở về. Vì đợi quá lâu, bà chết và dân chúng lập đền thờ bà ở ngay trên quả đồi này. Tương truyền, những ngày đợi chồng, Pô Bia Sôi ăn trầu nhả bã ra làm đỏ cát của cả quả đồi, vì thế mới có tên là Hòn Đỏ và miếu của bà được gọi là miếu Bà Đỏ. Trong ngôi miếu nhỏ Pô Bia Sôi, có hai hòn đá: hòn to ở phía trong (Bia Sôi) và hòn nhỏ ở phía ngoài (Pô Binôr Mưtri). Cách đây chừng hơn chục năm, do cát trôi, ngay ở phía bên ngoài miếu Bà Đỏ đã lộ ra một tấm bia đá cổ. Tấm bia hình trụ vuông và cả bốn mặt đều có những dòng chữ cổ của Chămpa xưa. Chắc hẳn nội dung của tấm bia (chưa được nghiên cứu và dịch) sẽ cho chúng ta biết những thông tin gì đấy về quả đồi Hòn Đỏ và khu vực cửa biển rất quan trọng này đối với vùng đất Panduranga xưa (nay là Phan Rang).
Sau lễ cầu đảo ở cửa Ngâm vài ba ngày, dân làng Bỉnh Nghĩa tiếp tục tổ chức một số lễ tiếp theo. Đầu tiên là lễ Pô Inư Nưgar rồi đến lễ Pô Nai – Pô Riyak. Lễ Pô Inư Nưgar là lễ dành cho nữ thần mẹ Pô Inư Nưgar và được tổ chức tại miếu Pô Inư Nưgar của làng. Như vậy là, ngoài miếu thờ thần hoàng làng Pô Bil Thuôr, trong làng Bỉnh Nghĩa còn có miếu thờ Pô Inư Nưgar – một hiện tượng rất hiếm ở các làng Chăm. Nữ thần mẹ Pô Inư Nưgar của Bỉnh Nghĩa được gọi là Pô Inư Nưgar Hamukut (nữ thần mẹ xứ sở Hamukut – khu vực làng Bỉnh Nghĩa). Hiện tượng này là một bằng chứng nữa về sự “độc lập” của làng Chăm Bỉnh Nghĩa.
Như những lễ được tổ chức trong các đền tháp, lễ Pô Inư Nưgar do ông Kadhar và bà Muk Pajau làm chủ lễ. Ngoài các lễ thức thông thường (như mở cửa, tắm tượng…), tại lễ Pô Inư Nưgar còn có hát đối đáp và múa phồn thực như trong lễ hội Rija Nưgar.
Trước đây, người Chăm Bỉnh Nghĩa cũng lên núi Chà Bang để tế lễ nữ thần Pô Nai và đến làng Sơn Hải (Phước Dinh) để lễ thần Sóng Biển Pô Riyak. Thế nhưng giờ đây cả hai lễ trên đều được tổ chức tại sân miếu thờ Pô Bil Thuôr và do ông Bóng làm chủ lễ. Trong lễ, ông Bóng múa mừng Pô Nai bằng mâm hoa quả và múa mừng Pô Riyak bằng điệu múa chèo đò như trong lễ hội Rija Nưgar.
Như vậy, chỉ trong vòng mươi ngày đầu tháng một (lịch Chăm) hàng năm, người Chăm ở Bỉnh Nghĩa tiến hành một loạt lễ thức mà người Chăm ở các nơi khác phải thực hiện trong suốt mấy tháng đầu năm. Vào năm mới, như các nơi khác, người Chăm ở Bỉnh Nghĩa cũng đón năm mới bằng lễ hội Rija Nưgar (cùng một số lễ thức phù trợ). Chỉ một ngày sau, người Chăm Bỉnh Nghĩa tổ chức luôn lễ cầu đảo. Và cũng vào dịp đầu năm, như nhiều nơi khác, người Chăm ở Bỉnh Nghĩa còn đến những đền miếu, lăng mộ các vị thần để dâng cúng và cầu nguyện mưa gió thuận hòa cùng vạn sự tốt lành cho cả năm.
Hơn thế nữa, trong một số lễ thức đầu năm như ngày thứ hai của Rija Nưgar và lễ cầu đảo còn diễn ra những lễ thức mang tính phồn thực rất đặc trưng cho lễ Tết năm mới của các cư dân nông nghiệp ở Việt Nam và Đông Nam Á.
Vậy nên, về thực chất Rija Nưgar là lễ Tết năm mới truyền thống của người Chăm.
Về những điệu múa, nhạc cụ trong Lễ hội
Cái hương sắc của những lễ hội chuyển mùa đó của người Chăm chính là múa. Và để có những điệu múa thiêng đầu năm, phải có nhạc và những lời ca. Nhạc và những bài thánh ca làm nền cho những điệu múa thiêng đầu năm của người Chăm thật đặc biệt và rất Chăm.

Lễ múa mở cửa Đền
Cũng như các múa nghi lễ khác, múa của ông Bóng trong lễ hội Rija Nưgar là múa thiêng. Không phải ngẫu nhiên mà hôm đầu của Rija Nưgar được người Chăm gọi là ngày cúng thần (êw yang). Và trong ngày cúng thần này, ông thầy Vỗ vừa vỗ trống paranưng còn có thêm ba loại nhạc cụ nữa của người Chăm là một cặp trống kinăng, kèn saranai và một chiếc chiêng (cèng-cheng). Thầy Vỗ hát đến vị thần nào thì ông thầy Bóng múa điệu múa tương ứng với vị thần được mời. Bởi vậy, có thể nói, tính thiêng nằm ngay trong tiếng trống paranưng rất đặc trưng này của người Chăm.
Trong số các nhạc cụ truyền thống của người Chăm, có bốn loại trống là:
-         Trống đại (hakăr prong - đọc là kar prong);
-         Trống con (hakăr sit);
-         Trống kinăng;
-         Trống paranưng.
Điều đặc biệt là mỗi loại trống có một vị trí hay vai trò chủ đạo trong một vài nghi lễ nhất định. Ví dụ, ở lễ nào có thầy Cò Ke (thầy kéo đàn kanhi) chủ lễ hay trong các đám tang thì không dùng trống ginăng. Còn trong lễ Rija Nưgar nói riêng và các lễ Rija khác thì trống paranưng là nhạc cụ chủ đạo vì chức năng chính của loại trống này là đệm cho các bài tụng ca các thần nhằm cầu khẩn những điều tốt lành, thịnh vượng cho cộng đồng, làng xóm và gia tộc.
Trống Paranưng
Paranưng là một loại trống có đường kính mặt trống từ 40 đến 44cm và cao từ 10 đến 13cm và chỉ có một mặt. Chất liệu và cách làm paranưng cũng rất đặc biệt. Thân trống được làm bằng thân cây cóc hoặc cây lim lớn cưa ngang rồi khoét rỗng. Mặt trống được làm bằng da (Bò, trâu, hươu, dê,…). Vòng căng dây kéo mặt trống bằng cây mây, dây căng mặt trống bằng dây mây nhỏ, các con nêm bằng gỗ. Khi đánh paranưng, ông thầy Vỗ (ôn Mư duơn) ngồi trong tư thế xếp bằng, kê trống lên đùi chân trái, úp trống (quay mặt trống ra ngoài) trước ngực dùng tay tỳ giữa trống và vỗ trống bằng hai tay chứ không dùng dùi để đánh.
Cũng như các loại trống khác, paranưng có cách đánh tạo thành các loại âm riêng. Paranưng có ba âm (hay nốt) đi với ba cách vỗ sau:
- Âm “tầm” ký hiệu \ và khi vỗ thì vỗ các ngón tay vào mặt trống cách bìa trống 10cm;
- Âm “tắc”, ký hiệu /, khi vỗ thì vỗ các ngón tay vào mặt trống cách bìa trống 5 cm;
- Mở các ngón tay tạo thành âm “tâm” (-).
Chỉ với ba âm “tầm”, “tắc”, “tâm” thôi mà trong lễ Rija Nưgar, ông thầy Vỗ tấu được cả chục bài nhạc đệm cho các bài tụng ca các thần.
Trên thực tế, trong lễ hội Rija Nưgar có ba điệu múa khác nhau:
-      Điệu thứ nhất là điệu múa dành cho gần như tất cả các thần được mời về và được các ông thầy Bóng gọi là điệu múa bình thường (Mya Phyan đọc là Mia bhian).
-      Điệu thứ hai là điệu múa dành cho Pôtăng Ahok là điệu múa chèo đò nhưng người Chăm gọi là điệu múa mía (Mya tapow đọc là mia tabuw) vì khi múa ông Bóng sử dụng cây mía làm đạo cụ.
-      Về điệu múa thứ ba, điệu múa đặc biệt của lễ hệt Rija Nưgar là vũ điệu đạp lửa (Mya cwă puy đọc là mia juak pui) vì mục đích chính của ông Bóng trong điệu múa này là phải dùng đôi chân dập tắt đống lửa lớn. Có thể nói, vũ điệu đạp lửa là một trong những biểu tượng mang tính lễ thức quan trọng nhất của lễ hội Rija Nưgar.
Ba điệu múa chính vừa kề trên đều đi theo nhạc của tiếng trống paranung: múa thường theo cả ba điệu nhạc, múa chèo đò theo điệu nhạc hơi nhanh và múa đạp lửa theo điệu nhạc nhanh, dồn dập.
Tiếng trống paranưng và nhịp điệu của bài tụng ca của ông thầy Vỗ (ôn Mư duơn) có tác dụng chỉ huy những điệu múa của ông Bóng; thế nhưng tiếng trống kinăng mới thực sự tạo nhịp điệu cho những bài múa trong lễ hội Rija Nưgar.
Nghệ nhân đánh trống Ginăng
Kinăng là một loại nhạc cụ rất đặc biệt của người Chăm cả về cách chế tạo, cách sử dụng và chức năng của nó trong cuộc sống của người Chăm. Về nguyên tắc trống kinăng bao giờ cũng phải có đôi (hai chiếc). Bởi vậy, khi làm trống kinăng người ta phải làm một cặp. Các bộ phận chính của trống kinăng được chế tác khá công phu. Thân trống dài 72cm với đường kính mặt lớn 28cm và đường kính mặt nhỏ 24cm được tạo từ một thân cây lớn như loại cây cà chít đục rỗng lòng, bào láng bên ngoài sao cho không có tì vết, không nứt. Thông thường người Chăm dùng một thân cây dài cắt ra làm đôi để làm một cặp trống. Khi đã có được một cặp thân trống dài hình trụ nguyên khối hơi vồng lên ở giữa người ta mới căng hai mặt trống bằng hai loại da khác nhau: da trâu cho mặt lớn và da dê hay da mang rừng cho mặt nhỏ. Viền da được cuốn bằng một vòng tre và mặt da được căng bằng cả một hệ thống dây da trâu níu kéo hai đầu lại với nhau. Trong trống, người ta thường cho vào vài hòn sỏi hay hạt lục lạc để tạo ra tiếng động rung khi đánh. Khi sử dụng, người ta đánh trống bằng cả dùi gỗ và tay không; dùi gỗ đánh mặt lớn, tay không vỗ mặt nhỏ.
Trống kinăng được sử dụng khá rộng rãi và có mặt ở nhiều lễ hội và thường đi với trống paranưng của ông thầy Vỗ. Trống kinăng có vai trò có thể nói là quan trọng nhất để gây không khí cho các lễ hội và để đệm cho các điệu múa. Thế nhưng trống kinăng không được sử dụng trong một số trường hợp như: lễ thân tộc, lễ cúng trong hội katê, đặc biệt là trong lễ tang. Về mặt hình thức thì có thể thấy lễ nào do thầy Cò Ke làm chủ lễ thì trống kinăng không được dùng.
Vì có hai mặt được sử dụng, nên hệ thống âm của trống kinăng nhiều gấp đôi của paranưng.
Mặt nhỏ của trống kinăng gọi là “chang” được vỗ bằng các đầu ngón tay của người đánh và gồm các âm:
-   “Tớ” (kí hiệu /) tạo bởi các đầu ngón tay vỗ sát mặt trống;
-   “Tin” (kí hiệu \) tạo bởi các đầu ngón tay vỗ vào giữa mặt trống ;
- “Tik” (kí hiệu •) tạo bởi các đầu ngón tay vỗ vào mặt trống rồi giữ nguyên các ngón tay tại đấy để được âm tắc.
Mặt lớn của trống gọi là “pầm” được đánh bằng dùi và có các âm sau:
-  “Gik” (kí hiệu •) tạo bởi dùng đầu dùi đánh mạnh vào mặt trống ở các trường hợp tiết tấu chậm.
- “Glong” (ký hiệu /) tạo bởi dùng đầu dùi đánh mạnh vào mặt trống;
- “Gleng” (ký hiệu ’) tạo bởi dùng dùi đánh nhẹ vào mặt trống.
Các nhà nghiên cứu ở trung tâm văn hóa Chăm tỉnh Ninh Thuận cho biết là đã sưu tầm và chọn lọc ra được 54 bài (điệu) của trống kinăng (tiếng Chăm gọi là Đôm ligăm kinăng). Trong số các bài đã sưu tầm được, có bốn bài liên quan tới lễ hội Rija Nưgar: bài Pô Hanim Pơr và Pô Sah Inư, bài Pô Ramê và bài Pô Tăng Ahok.



LỊCH CHĂM – SAKAWI CAM 2013

Nguồn gốc ra đời của lịch Chăm Một trong những lĩnh vực mà loài người hiểu biết nhiều và khá sớm đó là thiên văn. Từ xa xưa chính sự quan sát bầu trời của con người để xem xét sự vận động theo quy luật tự nhiên để tính toán cho nhu cầu sinh hoạt sản xuất của họ. Đời sống nông nghiệp bắt buộc cư dân phải thường xuyên quan sát bầu trời, xác định thời tiết. Dân tộc việt nam nói chung và người Chăm nói riêng cũng lấy nghề nông làm cơ sở kinh tế chínhTrải qua quá trình sống và sản xuất, Người Chăm đã tích lũy kinh nghiệm, tri thức về sự thay đổi của thời tiết, sự thay đổi của thiên văn để có thể có cơ cấu mùa vụ, có giống cây trồng, vật nuôi thích hợp, đạt năng suất cao. Ngoài ra, do trước đây người Chăm thường đi biển nên việc xác định thời gian, ngày mùa là rất quan trọng để đánh bắt thủy sản và tránh những cơn bão từ biển cả. Và xuất phát từ những nhu cầu thực tiễn đó, người Chăm đã dựa vào lịch Sakhas của Ấn Độ và Hồi giáo để làm ra lịch của mình.
Lịch có tầm quan trọng đặc biệt đối trong đời sống, phục vụ nhu cầu cuộc sống con người. Do đó, con người đã dựa vào sự vận hành của trái đất, mặt trời, mặt trăng để phân chia thời gian thành các đơn vị ngày, tuần, tháng, năm. Người Chăm cũng sớm nhận thức được điều đó nên đã sáng tạo ra lịch.
 v Cách tính lịch của người Chăm
Lịch Chăm có hai loại: lịch thuần âm (Sakawi Awar) và lịch thuần dương (Sakawi Ahier). Hai loại lịch này kết hợp với nhau gọi là lịch âm dương hỗn hợp, theo tiếng Chăm có hai cách gọi: takawi hoặc Sakawi. Dù lịch Chăm có tính ngày khác nhau giữa hai loại lịch nhưng lại có mối quan hệ với nhau dẫn đến cái chung trong khái niệm về ngày tháng năm…Vì lịch Chăm nói lên nhân sinh quan của họ: tư tưởng âm dương luôn gắn bó với nhau và tuân theo quy luật nhất định. Lịch Awar là âm đứng phía bên tả và tính ngày tháng từ hữu sang tả, còn lịch Ahier là dương đứng bên hữu và tính ngày tháng từ tả sang hữu chung luôn tuân theo một quy tắc nhất định và lấy Awar làm chuẩn. Nếu tháng Awar trồi thì tháng Ahier sụt và ngược lại. Đối với tháng thiếu thì tháng Ahier mới có thể trùng với tháng 11 và tháng 12 của lịch Awar. Khi trùng nhau rồi mới có thể tách ra. Đó là một quy định của lịch Chăm.
Người Chăm có cách tính lịch riêng của mình, dựa vào sự vận hành của mặt trăng, trái đất, mặt trời và các vì sao. Như đã nói ở phần trên, lịch Chăm có hai loại, đó là lịch thuần âm (Takawi Awar) và lịch thuần dương (Takawi Ahier). Hai loại lịch này kết hợp với nhau và gọi là âm dương lịch hỗn hợp. Hai loại lịch này có quan hệ với nhau nên cùng chung quan niệm về ngày tháng năm. Vì người Chăm có cái nhìn chung về biểu tượng: âm – dương luôn luôn gắn bó với nhau và tuân theo một quy luật nhất định, dựa vào nhau thật chặt chẽ và cùng song song tồn tại.
 Một số nhà khoa học và nhà chiêm tinh khi nghiên cứu các tài liệu cổ Chăm cho rằng: “Người Chăm lấy con người là biểu tượng của vũ trụ thu hẹp, trên trời (lingik) thuộc về dương, dưới đất (tanưk) thuộc về âm. Giữa trời và đất là con người, là một sinh vật có đủ lương tri do khí âm và khí dương cấu tạo thành”. Do đó mà quan điểm của các nhà chiêm tinh Champa có những đoạn phân tích về con người gồm đủ ngũ hành và màu sắc sau: - Kim (pathei) tượng trưng cho xương màu trắng - Mộc (kayâu) tượng trưng cho lông, tóc, màu xanh lá cây. - Thủy (ia) tượng trưng cho máu, màu đen. - Hỏa (apui) tượng trưng cho nhiệt, màu đỏ. - Thổ (tanưk) tượng trưng cho da, thịt, màu vàng. Đồng thời, thân người cũng được chia làm hai phần: - Phần xoáy đầu (Kayon) tượng trưng cho rốn trời, vì khi mặt trời đứng bóng thì người Chăm gọi là mặt trời đứng ở đỉnh đầu (Yang harei đi krưk akauk) - Phần rốn của con người (Bauk Pasak) tượng trưng cho rốn đất, vì chiều dài từ chân đến rốn đo được bốn gang tay, từ rốn đến đỉnh đầu cũng đo được bốn gang tay. Ở người nào thì đo gang tay của người đó.
v Lịch Sakawi – âm dương lịch Chăm
Cộng đồng Chăm hiện nay sử dụng 4 loại lịch: Chăm lịch (Sakawi Chăm), âm lịch BàniIslam, âm dương lịch việt và dương lịch Gregorian phổ thông, mỗi thứ lịch có một công năng riêng nhưng trong các sinh hoạt truyền thống và nông nghiệp thì họ vẫn sử dụng lịch Sakawi (Takawi) . Sở dĩ, người Chăm dùng danh từ Sakawi (Takawi) để chỉ lịch nói chung, trong đó có lịch Chăm Sakawi Chăm (Takawi Chăm) là bộ lịch của người Chăm thời lập quốc bắt nguồn từ lịch Shakas của Ấn Độ. Ra đời vào đầu thế kỷ thứ 2, lịch Shakas Ấn Độ du nhập vào Champa ngay từ buổi đầu vương quốc này mới hình thành. Khi mới vào thì lịch này chưa có khác biệt lớn so với lịch Ấn Độ, điểm khác biệt giữa Shakas Champa là tên 12 con giáp, tên năm, tên tháng bằng tiếng Chăm thay vì tiếng Ấn Độ. Có sự biến âm trong tên gọi các ngày trong tuần; Adid (chủ nhật), Sôm (thứ hai), Angar (thứ ba), But (thứ tư), Jip (thứ năm), Suk (thứ sáu), Sanưchar (thứ bẩy). Điều nàu cho thấy lịch Shakas khi vào Champa đã được họ tiếp nhận một cách chủ động, họ cất công nghiên cứu và khá thành thạo trong việc tính vị trí di chuyển theo thời gian của các thiên thể để định vị thời gian chính xác.
Ngày nay, lịch Chăm đã có sự khác biệt nhiều, lịch Sakawi của Chăm Jat đã có sự cải biến so với trước đây. Ví dụ như tên các tháng không còn gắn với 12 con giáp như lịch shakas của Ấn Độ và Champa đã trở lại dùng số đếm giống như các dân tộc Êđê và Giarai hiện nay, từ tháng giêng cho đến tháng mười lần lượt là: Tha, Dwa, Klau, Pak, Limư, Ranăm, Tajuk, Talipan, Salipan, Sapluh. Riêng tháng mười một và tháng Chạp không dùng số đếm mà dùng là PuisMac. Tên các tuần trăng và các ngày trong tuần lễ vẫn là hình thức biến âm của các danh từ tương ứng trong lịch Shakas của Ấn Độ. Như vậy, sau một thời gian dài từ khi du nhập thì lịch Ấn Độ đã được người Chăm tiếp nhận và có sự cải biến theo nhận thức của chính dân tộc mình tạo nên. Và đây là loại lịch chính mà người Chăm theo đạo Bàlamôn sử dụng Sự thay đổi các tháng của lịch Chăm so với lịch Ấn Độ và Champa xưa. Lịch shakas lịch Champa Lịch Chăm hiện nay Takuh Sa Kabau Dwa Rimong Klau Tapai Pak Inư Girai Limư Ula Raneh Ranăm Atheh Tajuk Pabe Talipan Pa Cra Salipan Mư Nuk Sapluh Asau Puis Pa bui Mac Nội dung của cách tính lịch được trình bày ở phần cách tính lịch chung của người Chăm. Do lịch này là lịch chung của cộng đồng chăm và cũng có những đặc điểm chung về cách tính ngày tháng với Hồi lịch.
v Hồi lịch - Âm lịch của các cộng đồng Chăm Bàni và Chăm Islam.
Bên cạnh lịch Chăm Jat còn có lịch của cộng đồng Chăm Bàni và Chăm Islam gọi là Hồi lịch. Hồi lịch du nhập vào Champa cùng với quá trình du nhập đạo Hồi vào thế kỷ 15-18. Đây là loại lịch tính ngày tháng hoàn toàn theo tuần trăng nên không phản ánh chu kỳ thời tiết, gây khó khăn trong sản xuất nông nghiệp. Nên loại lịch này chỉ có người Chăm theo Hồi giáo sử dụng trong việc làm lễ chay niệm, trong nghi lễ tôn giáo hàng năm của họ. Họ gọi lịch này là Sakawi Awar. Theo quy định của Hồi lịch, mỗi chu kỳ có 8 năm, mỗi năm có 12 tháng, mỗi tháng bình thường trung bình có 29,5 ngày. Như vậy, một năm bình thường của Hồi lịch chỉ 354 ngày, ngắn hơn thời lượng cần thiết để mặt trăng xoay đủ vòng trên quỹ đạo của nó là 354,36708 ngày. Do đó, nếu không được điều chính thì cư sau mỗi năm Hồi lịch lại đi trước mặt trăng 0,36708 ngày, và sau 33 năm sẽ đi trước mặt trăng đến 12,11364 ngày, tức là phải tới đếm 26-27 Hồi lịch mới thấy trăng tròn. Trong 8 năm của Hồi lịch có 3 năm tách (năm đủ), 5 năm mốc (năm thiếu), 8 năm xóa, năm đủ có 355 ngày, năm thiếu có 354 ngày. Các năm được ổn định và thể hiện như sau:
-         Thun Lier: năm nhất điểm có 354 ngày 15 giờ.
-         Thun Har : năm ngũ dấu có 355 ngày 0 giờ.
-         Thun Jim: năm tam dấu có 354 ngày 9 giờ (tam điểm đầu).
-         Thun Jưi : năm thất điểm có 354 ngày 18 giờ.
-         Thun Dal : năm tứ điểm có 355 ngày 3 giờ.
-         Thun Pak : năm nhị điểm có 354 ngày 12 giờ.
-         Thun Wau: năm lục điểm có 354 ngày 21 giờ.
-         Thun Jim: năm cuối tam điểm có 355ngày6giờ (tam điểm cuối).
Từ chỗ âm lịch Hồi giáo tính ngày, tháng theo tuần trăng, không phản ánh chu kỳ thời tiết nên người Chăm dựa vào cơ sở tính ngày tháng của Hồi giáo kết hợp với sự chuyện động của mặt trời và các vì sao để làm ra loại lịch mới đó là âm dương lịch hỗn hợp. Và họ gọi là Sakawi Ahier để chỉ người Chăm theo đạo Bàlamôn hay Chăm Jat phân biệt với âm lịch của người Chăm theo hồi giáo. Do sự lệ thuộc vào tuần trăng và ngày tháng nên không phản ánh chính xác chu kỳ thời tiết thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt vì thế nên chỉ có tác dụng trong hoạt động tôn giáo phục vụ nghi lễ của người Chăm theo đạo Hồi.
v Qui tắc tính giờ, ngày, tháng của lịch Chăm.
¯ Cách tính giờ: giờ của người Chăm Jat và Chăm Hồi giáo đều có chung quan niệm. Giờ được gọi là tuk.
Người ta căn cứ vào con người tức là một tiểu vũ trụ vì chiều dài và chiều ngang của con người đều đo đúng 8 gang tay. Họ chia một ngày thành 8 giờ và một đêm có 8 giờ, cả ngày và đêm là 16 giờ. Ngày bắt đầu từ lúc mặt trời lặn và đêm thì ngược lại. Một giờ chia bằng 1 gang tay. Ta thấy một ngày của người Chăm so với giờ chung của việt nam cùng khoảng thời gian như nhau nhưng giờ chung này có 24 giờ, người Chăm chỉ có 16 giờ. Vì có sự chênh lệch này nên giờ người Chăm hiện nay chỉ sử dụng để coi ngày tháng tốt xấu mà thôi.
Cách tính ngày: ngày người Chăm gọi là harei. Ngày thì có ngày âmngày dương.
- Ngày dương từ ngày mồng 1 đến 15 gọi là Bingun giai đoạn này là thượng tuần âm lịch của người Việt.
-Ngày âm (Klem) có từ ngày mồng 1 hạ tuần trăng đến 15 hạ tuần trăng (hết tháng), cũng ngày mở đầu cho 8 cung được ấn định bất di bất dịch.
- Thun Lier: năm nhất điểm có 354 ngày 15 giờ.
- Thun Har : năm ở đầu, ngày khởi đầu là ngày thứ 3.
- Thun Jim : ngày mở đầu là ngà chủ nhật.
- Thun Jưi : ngày mở đầu là ngày thứ năm
- Thun Dal : ngày mở đầu là thứ hai
- Thun Pak : ngày mở đầu là thứ bảy
- Thun Wau: ngày mở đầu là thứ tư.
- Thun Jim lwic (cuối) hay Jut: ngày mở đầu là chủ nhật.
Ta thấy thun (năm) Lier mở đầu là thứ sáu ngày mồng 1/1 (đầu tháng). Điều này mang tính chất qui định vì ngày mồng một của tháng không phải nhất thiết duy nhất là thứ sau, mà có thể là các ngày trong tuần. Ta có thể thấy qua hai trường hợp sau:
- Trường hợp 1: ngày đầu năm của năm lịch mồng 1/1 là ngày thứ sáu, cách tính số ngày trong tháng của người Chăm là số lẻ có 30 ngày. Nếu mồng một gặp thứ sáu thì đến rằm ngày 15 sẽ lại gặp ngày thứ sáu và mồng một (hạ tuần trăng) sẽ là ngày thứ bảy và đến 15 (hạ tuần trăng) sẽ gặp lại ngày thứ bảy. Như vậy, khi hết tháng 1 gặp ngày thứ bảy thì qua mồng 1 tháng hai sẽ là chủ nhật. Do đó, ta thấy ngày đầu tháng 1 của năm lịch thứ sáu khi chuyển qua ngày đầu tháng 2 là ngày chủ nhật. Sự chuyển liền giữa hai tháng này mất ngày thứ bảy, có nghĩa là cách nhau một ngày. Trong một năm có 12 tháng, những tháng mang số lẻ có 30 ngày gọi là tháng đủ.
- Trường hợp 2: vì như trên đã tính ngày đầu tháng 2 là chủ nhật, mà tháng hai theo quy định của người Chăm là tháng thiếu có 29 ngày. Từ đó, cách tính tháng thiếu sẽ là: nếu mồng một thượng tuần tháng 2 là chủ nhật thì đến rằm 15 cũng sẽ là ngày chủ nhật, và hạ tuần theo cách tính tháng thiếu cũng sẽ gặp lại ngày chủ nhật. Do đó đến 15 hạ tuần trăng ta thấy cuối tháng 2 là chủ nhật khi chuyển qua ngày đầu tháng 3 của năm thứ hai liên tục đó người Chăm gọi là sự nối tiếp. Trong một năm có 12 tháng thì các tháng mang số chẵn: 2,4,6,8, 10, 12 sẽ có 29 ngày.
Ngày của người Chăm còn tương tự như thứ của người Việt. Một tuần có 7 ngày (thứ) gồm: Adit (chủ nhật), Sôm (thứ hai), Angan (thứ ba), But(thứ tư), Jip (thứ năm), Suk (thư sáu), Sanưchan(thứ bảy). Mỗi ngày có một tên gọi riêng gắn với biểu tượng nhất định:
- Ngày thứ nhất: Adit, tôk mưh = mặt trời, tiếp nhận vàng
- Ngày thứ hai: Sôm, tôk pariak= mặt trăng, tiếp nhận bạc
- Ngày thứ ba :Angan, tôk pathei = sao hỏa, tiếp nhận sắt
- Ngày thứ tư: But, tôk tănh bâchh = sao thủy, nhận đẻ đất
- Ngày thứ năm: Jip, tôk drap mưtakai = gió, hơi nhận súc vật
- Ngày thứ sáu: Suk, tôk pacha = thương đế, nhận y phục
- Ngày thứ bảy: Sanưchan, tôk pa dai = đất, nhận thóc lúa.
¯ Cách tính tháng (bilan) :
Tháng có tháng chẵn và tháng lẻ:
- Tháng chẵn: gồm tháng 2, 4, 6, 8, 10, 12 là tháng thiếu, có 29 ngày.
- Tháng lẻ: 1, 3, 5, 7, 9, 11 là tháng đủ có 30 ngày.
Cách tính tháng chẵn lẻ đã trình bày ở trên. Việc xác định ngày tháng dựa vào sự xuất hiện của mặt trăng. Đầu tháng không trăng và giữa tháng ngày rằm trăng tròn. Theo sách cổ để lại, khi nào nhìn về hướng đông vào lúc trời rạng sáng mà thấy một chòm sao Mang Chủng xuất hiện trên đỉnh núi được một lúc rồi tan biến bởi ánh bình minh, thì thời gian đó, lịch Champa phải gọi là tháng 2, năm nào thấy sao Mang Chủng xuất hiện vào những ngày cuối tháng hai thì năm đó phải nhuần tức có tháng thứ 13, nếu không có nhuần thì năm sau sao sẽ xuất hiện vào tháng 3 và lệch so với thời gian quy định. Mối năm sao Mang Chủng xuất hiện chậm đi 11 ngày, do độ dài của năm Chăm lịch ngắn hơn so với độ dài của dương lịch hoặc chu kỳ vận chuyển sao Mang Chủng bằng nhau, cho nên sao này luôn xuất hiện đúng vào ngày 5 hoặc ngày 6 dương lịch hàng năm. Căn cứ vào sự xuất hiện của sao Mang Chủng vào tháng hai Chăm lịch, trùng tháng 6 dương lịch và nhầm tháng 5 của âm lịch từ cơ sở đó ta đối chiếu tiếp cho các tháng còn lại cụ thể như sau: Tháng Dương lịch, Tháng âm lịch, Tháng chăm lịch 6 7 8 9 10 11 12 1 2 3 4 5 5 6 7 8 9 10 11 12 1 2 3 4 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 1 12 tháng trong một năm của người Chăm có tên gọi riêng và mỗi tháng lại thuận về một sự việc:
-Tháng 1: bilan sa, binhưk than ươn=thuận về tương tư
-Tháng 2: bi lan dua, binhưk danuk khan=thuận về tỗi lỗi
-Tháng 3: bilan klâu, binhưk pa dai=thuận về thóc lúa
-Tháng 4: bilan pak, binhưk mưtai=thuận về chết chóc
-Tháng 5: bilan limư, binhưk mưthao=thuận về gây hấn
-Tháng 6: bilan năm, binhưk pagun drap=thuận về tài sản
-Tháng 7: bilan tạuh,binhưk than kih=thuận về đau ốm
-Tháng 8: bilan talipan, binhưk gamuk khak= thuận về tội lỗi
-Tháng 9: bilan sa lipan,binhư mưthao= thuận về gây hấn
-Tháng 10: bilan sapluh, binhưk than rap biak=thuận về phát tài to
-Tháng 11: bilan pluh sa, binhưk rat dabrat dhinh=thuận về hưng thịnh
-Tháng 12: bilan pluh dua, binhưk apui băng=thuận về lửa cháy.
¯ Cách tính năm (thun):
Lịch Chăm cũng dùng 12 con giáp để biểu hiện cho năm như lịch nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, riêng với người Chăm thì con mèo (mão) được thay thế bằng con thỏ (ta pai). 12 con giáp Chăm Tên gọi của một số nước Á Đông: Takuh (Tí) -  Kabau (Sửu) -  Rimong (Dần) – Tapai (Mão) - Inư Girai (Thìn) - Ula Raneh (Tỵ) - Atheh (Ngọ) - Pabe (Mùi) - Pa Cra (Thân) - Mư Nuk (Dậu) - Asau (Tuất)  - Pa bui (Hợi).
Năm âm lịch là một chu kỳ kéo dài của mặt trăng. Nên một năm theo Hồi lịch có độ dài là 355 ngày. Ngày tính lịch Chăm theo hệ thống chu kỳ 8 năm như Hồi lịch, bởi nó vốn là loại lịch âm nhưng nhưng khác trong định kỳ 8 năm phải có nhuận 3 lần, mỗi lần một tháng thiếu (29 ngày) tính ra ngày ở 3 lần nhuận có: 293 = 87 cộng với 2835 ngày của 8 năm của lịch Awar thì được 2922 ngày. Trong 8 năm định kỳ nhuận 3 lần. Vậy một lần lấy nhuận quy ra tháng là 128 =96 tháng chia cho 3 bằng 32 tháng tương đương với mỗi lần nhuận của âm lịch. Với năm Chăm lịch, muốn tính năm nhuận lấy năm tương đương ứng năm Chăm lịch chia cho 8, nếu số dư là một trong các số 0, 3, 5 thì Chăm lịch đúng là năm nhuận.
Lịch Hồi giáo trong thực tế không bao giờ được sử dụng rộng rãi trong cộng đồng người Chăm theo hồi giáo, mà chỉ được sử dụng rộng rãi trong phạm vi rất hẹp là để tính ngày dùng thuần túy tôn giáo về các ngày lễ lớn như Ramưwan, lễ vào thánh đường, ngày mảng chay (taleh) và ngày lễ waha của người Chăm Hồi giáomà thôi.
 Như vậy, rõ ràng là toàn bộ người dân tộc Chăm từ trước đến nay kể cả Chăm theo tôn giáo Bàlamôn hay Bàni đều sử lịch Chăm chung (lịch Chăm không phải là lịch riêng của người theo đạo Bàlamôn). Lịch Chăm chung này được cộng đồng dân tộc Chăm rất tôn trọng và sử dụng rộng rãi như ngày cưới hỏi, tang chế, đình đám, lễ hội, cúng kính, xây dựng nhà cửa, mua trâu bò, tân gia,...ngoài ra, người Chăm còn hiểu là việc ấn định ngày tháng thiêng liêng liên quan đến thần thánh của dân tộc.
Chúng ta có thể thấy rằng, với cách tính lịch trên lịch Chăm có một số nét tương đồng với âm lịch trên thế giới:
 • Lịch Chăm sử dụng 12 con giáp để biểu hiện cho năm như Takuh, Kabau, Rimong (Chuột, Trâu, Hổ) mà âm lịch gọi là Tí, Sửu, Dần...
 • Tính theo chu kỳ mặt trăng thì có 29,5 ngày và 45 phút vì số lẻ 0,5 nên dồn vào tháng trước thành 30 ngày, gọi là tháng đủ, còn 29 ngày cho tháng sau gọi là tháng tiếu. Số tháng trong năm thường là 12 và năm nhuận là 13 tháng.
• Số ngày trong 8 năm của lịch Chăm kể cả 3 lần nhuận là 2922 ngày tương đương với số ngày của dương lịch. Tuy nhiên lịch Chăm cũng có những nét riêng của mình:
• Lịch Chăm không giống âm lịch có 10 can (giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ, canh, tân, nhâm, quý) mà Chăm chỉ có 8 can (Lieh, Hak, Jim, Jưi, Dal, Bak, Wao, Jim Lwich).
• Âm lịch của người Việt thường nhuần vào cuối năm, tức tháng 13 chứ không nhuần vào các tháng giữa năm như lịch Chăm.
• Lịch Chăm căn cứ vào thiên nhiên để xác định: ngày, giờ dựa vào ngôi sao, mặt trời và mặt trăng. Người Chăm có câu:
“Cha rah bilan glăng patuk
Ikak tuh glăng yang harei
Cha dar harei glăng yang bilan”
Dịch:
“Chỉnh tháng thì nhìn ngôi sao
Định giờ thì nhìn mặt trời
Định ngày thì nhìn mặt trăng”
Dựa trên 3 ngôi sao này: một là sao Mang Chủng (tua rua), hai là sao cày, ba là sao thần nông, mỗi ngôi sao có hạn kỳ xuất hiện nhất định của nó, vì ngôi sao Mang Chủng xuất hiện trước tiên cho nên ta lấy sao Mang Chủng làm gốc.
Tóm lại, hiện nay người Chăm đang sử dụng cùng lúc 4 loại lịch. Hai loại lịch được họ sử dụng nhiều trong các nghi lễ cộng đồng là lịch Sakawi Awar - Ahier. Tuy nhiên, lịch Chăm chung, tức lịch Ahier vẫn được sử dụng rộng rãi hơn lịch Awar, từ việc xem ngày tháng trong các nghi lễ tôn giáo, tín ngưỡng, nông nghiệp,...còn âm lịch và lịch Gregorian vẫn được sử dụng để cùng thống nhất với các hoạt động chung của đất nước và thế giới.
















“Nguồn: Isvan Champa”